Bản sắc và hội nhập trong sáng tác mỹ thuật – thách thức và cơ hội

Câu chuyện bản sắc trong sáng tác Mỹ thuật luôn là một đề tài được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát
triển của nền mỹ thuật Việt nam từ khi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương được chính thức thành lập. Ở từng giai đoạn phát triển, “bản sắc”
văn hoá luôn trở thành một vấn đề được các thế hệ nghệ sĩ trăn trở và tìm
tòi thể hiện. Rất nhiều tên tuổi lớn đã để lại dấu ấn cá nhân đặc sắc của
mình trong lịch sử nền mỹ thuật Việt nam từ thời Đông Dương tới nay. Tuy
nhiên trong phạm vi bài viết này tôi muốn đề cập đến giai đoạn hiện nay
với những thực hành theo xu hướng nghệ thuật đương đại xử lý với vấn đề
“bản sắc” thế nào trong thời đại hội nhập với khu vực và thế giới. Khái niệm
“hội nhập” với Mỹ thuật Việt nam nói chung có lẽ trở nên mạnh mẽ và có
tính chất bước ngoặt tính từ khi mở cửa nền kinh tế vào cuối những năm

  1. Tính từ đó tới nay đã hơn 30 năm những thực hành sáng tác mỹ thuật
    của Việt nam đã bước vào con đường mở cửa và hội nhập với thế giới, đặc
    biệt là sau năm 2000 với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông
    tin và internet, sự giao lưu mở mang không biên giới của tri thức và của các
    thông tin đa chiều đã làm phân hoá rõ nét các xu hướng thực hành sáng tác
    mỹ thuật. Một xu hướng phổ biến trong số đông các hoạ sĩ thường sử dụng
    khi đề cập đến vấn đề “bản sắc” là hình tượng hoá các biểu tượng mang tính
    bản sắc văn hoá địa phương hay các biểu tượng được cho là phổ quát về
    văn hoá dân tộc và thể hiện trên các chất liệu truyền thống của Hội hoạ, Đồ
    hoạ hay điêu khắc và coi đó là mục đích cuối cùng của quá trình sáng tác.
    Một xu hướng khác được một nhóm nhỏ các nghệ sĩ khác cố gắng theo đuổi
    các thực hành nghệ thuật đương đại theo xu hướng hội nhập quốc tế. Xu
    hướng này thường được thực hiện tiến hành theo hình thức các dự án nghệ
    thuật, nhấn mạnh vào quá trình thực hiện với phương pháp tiếp cận đa
    dạng theo xu hướng liên ngành bao gồm từ quá trình nghiên cứu điền dã,
    thực hành đa phương tiện bằng nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau từ
    vẽ, in ấn, ký hoạ, nhiếp ảnh, video, sắp đặt, sử dụng các đồ vật có sẵn, tạo
    tác các vật phẩm kết hợp với các nghệ nhân thủ công truyền thống … không
    giới hạn bất kỳ phương pháp tiếp cận và hình thức thể hiện nào. Các vấn đề
    được đề cập nhiều trong các các tác phẩm dự án kiểu này thường chất vấn
    những yếu tố như lịch sử, văn hoá, truyền thống, bản sắc, thân phận, quyền
    lực, môi trường…Nó thường là những dự án nghiên cứu văn hoá, chất vấn
    về bản sắc dưới các hình thức của nghệ thuật thị giác được triển lãm ở
    những không gian chuyên biệt, lôi kéo người xem cùng tư duy, tương tác
    chiêm nghiệm cùng tác phẩm. Cách tiếp cận này cũng là xu hướng thực

hành khá phổ biến trong các thiết chế nghệ thuật ở các trung tâm nghệ
thuật phát triển trên thế giới. Các chương trình lưu trú sáng tác với hàng
ngàn quỹ hỗ trợ lớn nhỏ trên thế giới, các Bảo tàng nghệ thuật, các không
gian nghệ thuật, các trường Đại học nghệ thuật, các quỹ phát triển nghệ
thuật luôn có sẵn các chương trình hỗ trợ cho các nghệ sĩ khắp nơi trên thế
giới thực hành theo xu hướng này. Các cơ chế triễn lãm lưỡng niên
(bieannale), tam niên( trieannale), các chương trình art fair, art stage đều
đặn diễn ra trên khắp thế giới, dường như chưa bao giờ trở nên gần gũi và
dễ tiếp cận như vậy cho những nghệ sĩ Việt nam. Chính vì vậy trong hơn
chục năm trở lại đây, các nghệ sĩ Việt nam đã bắt đầu tích cực chủ động
thực hành và tìm kiếm các cơ hội tham gia học hỏi nâng cao khả năng hội
nhập quốc tế với những luật chơi mới. Và khi càng hội nhập trong những
thiết chế nghệ thuật quốc tế, câu chuyện “bản sắc” trong các thực hành của
nghệ sĩ lại càng trở nên quan trọng, tới mức “sống còn”. Và có lẽ cũng không
quá khó để nhìn thấy trong thời gian vừa qua những tên tuổi của nghệ sĩ
Việt nam hoặc có gốc Việt trở nên thành danh trong các thiết chế nghệ
thuật quốc tế như Lê Quang Đỉnh, Jun Nguyễn Hatshushiba, Danh Võ, An Mỹ
Lê, Nguyễn Oanh Phi Phi, Ưu Đàm Trần Nguyễn, Lê Brother, Tiffany Chung,
The Propeller group.. luôn đậm đặc hoặc phảng phất bóng dáng câu chuyện
của “bản sắc” hay “bản địa” Việt. Trong thế giới phẳng toàn cầu hoá ngày
hôm nay, rõ ràng những câu chuyện “địa phương”, câu chuyện “bản địa”
trong mối tương quan đa chiều với các vấn đề phổ quát tầm quốc tế hay của
nhân loại chính là “chìa khoá” để mang câu chuyện “bản sắc” của một dân
tộc, một nền văn hoá tới gần hơn với những giá trị chia sẻ chung về văn hoá
và nhân văn của nhân loại. Mẫu số chung này nhìn lại cũng thấy khá rõ ràng
ở những nền mỹ thuật đương đại mới nổi trong những thập niên gần đây
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn độ, Thái Lan, Indonesia… câu
chuyện về “bản sắc”, “bản địa” cũng nhìn thấy rất rõ ở những nghệ sĩ tầm
quốc tế. Chính các “sắc thái” bản địa” từ hình thức đến câu chuyện của của
các nghệ sĩ đến từ nhiều nền văn hoá, nhiều dân tộc đã làm cho bức tranh
chung về nghệ thuật đương đại trên thế giới ngày hôm nay ngày càng trở
nên hấp dẫn hơn. Xu hướng phát triển của nghệ thuật đương đại theo
hướng “Global thinking, local action” (tạm dịch là “suy nghĩ và tư duy tầm
quốc tế, bắt đầu từ những hành động ở bản địa”) trở thành một xu hướng
chung phổ quát kích thích các nghệ sĩ truy vấn, phản biện các giá trị về “bản
sắc”, “lịch sử”, “niềm tin”, những thứ gắn chặt cơ hữu của nền văn hoá hay
căn tính dân tộc…bên ngoài những vẫn đề mang tính toàn cầu như “môi
trường”, “di dân”,”đô thị hoá” hay các vấn đề mới của đời sống con người
trong xã hội hiện đại…

Có thể nhìn thấy những nỗ lực của cá nhân các nghệ sĩ địa phương là
không nhỏ khi phải cố gắng tự thân vận động tìm kiếm các cơ hội để hoà
nhập với môi trường quốc tế luôn thay đổi vận động trong khi môi trường
hoạt động trong nước chưa thực sự có những thay đổi bắt kịp xu hướng của
thế giới. Có thể thấy rõ ưu thế nổi trội của những nghệ sĩ quốc tế gốc Việt
với những lợi thế sẵn có từ quốc tịch quốc tế cho tới bề dày kinh nghiệm từ
nền tảng giáo dục và hoạt động trong một môi trường chuyên nghiệp từ
trước đó. Trong khi đó để bắt kịp với xu thế hội nhập quốc tế các nghệ sĩ ở
trong nước buộc phải tự nỗ lực hơn rất nhiều trong quá trình tự hoàn thiện
bản thân bắt kịp với những quy chuẩn quốc tế mới. Có thể kể đến những
lần xuất hiện của các nghệ sĩ Việt ở những sự kiện nghệ thuật đương đại có
tầm cỡ trong khu vực như ở Singapore bieannale hay như trong dự án
“Riverscape in Flux” (Phong cảnh sông nước đang biến đổi) được triển lãm
vòng quanh 6 nước Đông Nam Á – một nỗ lực từ 6 viện Goethe ở Đông Nam
Á, hay gần đây là sự xuất hiện chính thức và có quy mô lớn nhất từ trước
đến nay của nghệ thuật đương đại Việt nam ở bảo tàng Bildmuset, Umea,
Thuỵ Điển thông qua triển lãm dự án “Miền Méo Miệng” kéo dài suốt 5
tháng được giám tuyển bởi nghệ sĩ Trần Lương. Trong quá trình tiếp sức
này vai trò của những viện văn hoá nước ngoài như viện Gớt, viện Pháp
L’espace…và các quỹ hỗ trợ nghệ thuật của nước ngoài như quỹ CDEF của
Đan Mạch, quỹ Prince Claude của Hà Lan, quỹ Đông sơn today, hay lâu nữa
như quỹ Ford … đóng một vị trí hết sức quan trọng trong việc khích lệ và
nâng đỡ những nghệ sỹ địa phương thực hành theo xu hướng nghệ thuật
đương đại hội nhập với quốc tế. Thêm vào đó những không gian tư nhân
của người Việt như Manzi, Factory contemporary art, Sàn Art… tuy không
nhiều những cũng là những đóng góp quý báu trong việc dần hình thành và
thúc đẩy các hoạt động của các nghệ sĩ cũng như bước đầu giúp việc thúc
đẩy môi trường thực hành và thu hút thêm cộng đồng người xem. Và ở một
chiều ngược lại cũng ngày càng có nhiều những nghệ sĩ đương đại trên thế
giới sang giao lưu, thực hiện các workshop và triển lãm thông qua các quỹ
văn hoá nước ngoài cũng là một nguồn lực không nhỏ góp phần nâng cao
năng lực và tư duy sáng tạo nghệ thuật theo xu hướng hội nhập quốc tế hơn
cho chính những nghệ sĩ địa phương.
Rõ ràng là có một khoảng cách khá lớn giữa phần lớn các hoạ sỹ thực
hành theo nếp cũ trong đời sống mỹ trong nước với những thiết chế nghệ
thuật quốc tế phổ biến hiện nay, khiến cho môi trường nghệ thuật đương
đại trong nước chưa thực sự có được sự phát triển mạnh mẽ để có thể hội
nhập sâu hơn vào những những sân chơi quốc tế. Xu thế hội nhập quốc tế là
một tiến trình không thể đảo ngược không những chỉ riêng trong lĩnh vực

sáng tác văn hoá nghệ thuật và còn là câu chuyện chung của tất cả các lĩnh
vực khác trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của Việt nam, tuy nhiên
nhìn vào tình hình thực tế viễn cảnh này vẫn còn chưa mấy sáng sủa khi mà
các điểm thắt về cơ chế vẫn còn chưa được tháo bỏ. Câu chuyện hội nhập
quốc tế, câu chuyện mang “bản sắc” đi đánh xứ người trước mắt vẫn chỉ là
câu chuyện của những nỗ lực cá nhân.
“Khe cửa hẹp”
Phần nhỏ trong bài viết này tôi muốn đề cập đến “dự án nghệ thuật trong
không gian nhà Quốc hội” mà tôi và một nhóm nghệ sĩ đã có may mắn được
thực hiện và hoàn thành vào cuối năm ngoái. Từ một lời đề nghị và đặt
hàng từ Chủ tịch thành phố Hà nội và Văn phòng Quốc hội Việt nam, tôi đã
có dịp đưa câu chuyện về những thực hành nghệ thuật đương đại của một
số nghệ sĩ Việt nam đối thoại với chính ngữ cảnh của không gian nhà Quốc
hội và 2 bảo tàng cổ vật Thăng Long và Đại La ngay dưới chân toà nhà. Dự
án này như một nỗ lực của nhóm nghệ sĩ đã cố gắng lấy cảm hứng tinh thần
từ những giá trị di sản văn hoá còn sót lại từ ngay tại nơi đây cũng như mở
rộng ra thành tinh thần của di sản thuyền thống dân tộc đưa vào trong
những sáng tác “đo ni đóng giầy” với từng khu vực cụ thể trong đường hầm
toà nhà.
Trong vòng hơn 3 tháng từ khi bắt tay vào thực hiện, 15 nghệ sĩ với hơn
100 trợ lý kỹ thuật và những người thợ lành nghề ở hơn 10 xưởng rải rác
trong khắp Hà nội Thái Bình và cả từ Huế đã nỗ lực làm việc không kể ngày
đêm để thực hiện và hoàn thành những tác phẩm hoàn toàn mới, được thiết
kế theo địa hình ở khu vực đường hầm nhà Quốc Hội. Với những cụm tác
phẩm sắp đặt không gian kích thước lớn, các tác giả đã phủ kín hơn 500
mét dài trong không gian trong 3 khu vực đường hầm nhà Quốc Hội, từ khu
vực đường hầm nhỏ, đường hầm lớn và lối hầm nhà để xe. Những tác phẩm
với đa dạng các chất liệu. từ sơn mài truyền thống, đồ hoạ mở đến các chất
liệu sắp đặt đa phương tiện, sắp đặt video art trên lụa, nhiếp ảnh phù điêu,
sắp đặt chạm khắc đồng tương tác, sắp đặt hàn sắt chuyển động… đã làm
biến đổi hoàn toàn không gian lối đi hầm có sẵn của nhà Quốc Hội trở thành
một không gian nghệ thuật mang đậm tính ứng tác với ngữ cảnh của các
thực hành hành nghệ thuật đương đại. Lấy ý tưởng sử dụng cách tiếp cận
đa dạng của các hình thức nghệ thuật đương đại, 15 nghệ sĩ của dự án đã
dùng các tác phẩm của mình như một nỗ lực đối thoại và phản ánh những
cách nhìn sáng tạo của mình với những giá trị di sản văn hoá nghệ thuật và
kiến trúc trong suốt bề dày của lịch sử dân tộc. Một không gian thể hiện các
cách nhìn về Di sản qua các thực hành của nghệ thuật đương đại sẽ là một
kết nối lý tưởng với hai không gian Bảo tàng cổ vật Thăng Long và Tiền

Thăng Long dưới chân toà Nhà Quốc Hội. Sự tương tác kết nối từ không
gian cổ đại đến đương đại này, chắc chắn sẽ mang lại cho người xem một
trải nghiệm hoàn toàn khác biệt, giống như một chuyến du hành kết nối
mạch nguồn cảm hứng từ những địa tầng lịch sử huy hoàng trong quá khứ
tới những cách nhìn đầy sáng tạo của những nghệ sĩ thực hành nghệ thuật
đương đại ngày hôm nay.
Có thể nói với một không gian tổng thể trải rộng tới hơn 1500 mét
vuông, không gian nghệ thuật đương đại này mới trong nửa năm nay kể từ
khi chính thức bàn giao nghiệm thu đã đón tiếp hàng ngàn lượt khách trong
nước và quốc tế cũng như học sinh sinh viên các trường học, nó đã kiêm
luôn chức năng giống như không gian 1 bảo tàng nghệ thuật trưng bày các
tác phẩm trong bộ sưu tập cố định của Quốc hội liên thông với 2 bảo tàng
cổ vật. Trong bối cảnh ở Việt nam hoàn toàn chưa có 1 bảo tàng hay không
gian chính thức nào trưng bày chuyên biệt các tác phẩm thực hành theo xu
hướng nghệ thuật đương đại, đây có lẽ là một không gian vật lý cụ thể góp
phần vẽ lên một viễn cảnh về những bảo tàng nghệ thuật đương đại chuyên
biệt ở Việt nam trong tương lai, góp phần đưa những thực hành sáng tác
mỹ thuật ở Việt nam tiến gần hơn tới xu hướng hội nhập với khu vực và
quốc tế.
Nguyễn Thế Sơn

Comments are closed.