Phương hướng nào để Nghệ thuật công cộng gắn kết các điểm đến du lịch
1.Cơ sở lý luận và thực tiễn
Nghệ thuật công cộng trong những năm gần đây bắt đầu được quan tâm và nói đến nhiều hơn, tuy nhiên để hiểu và thực sự có những đánh giá đúng đắn về giá trị và vai trò của chúng trong đời sống xã hội, trong giáo dục cộng đồng hay trong việc nâng cao tính hấp dẫn của NƠI CHỐN khi mỗi dự án tác động vào, vẫn còn rất nhiều hạn chế. Có một độ chênh nhất định trong nhận thức về việc hiểu biết về nghệ thuật công cộng giữa những người quản lý cũng như cả phía rất nhiều những người thực hành sáng tạo trong phạm vi lĩnh vực này. Việc đặt ra vấn đề kết nối giữa nghệ thuật công cộng với việc kiến tạo điểm đến du lịch là một yêu cầu chính đáng và thiết thực với định hướng phát triển và kích thích nền kinh tế du lịch hậu đại dịch nói riêng cũng như một xu hướng tất yếu của nền kinh tế Việt nam những năm tới khi tập trung vào kinh tế du lịch và phát triển văn hoá. Tuy nhiên có một điều đầu tiên cần làm rõ, theo quan điểm cá nhân của người viết nên nhìn nhận Du lịch chỉ là một hệ quả đi theo sau của một chính sách phát triển tốt khi hỗ trợ cho sự phát triển lành mạnh của các dự án nghệ thuật công cộng. Vấn đề chất lượng đồng bộ của các dự án nghệ thuật công cộng từ chất lượng nghệ thuật đến các vấn đề chung quanh như môi trường cảnh quan tổng thể, ý thức văn hoá của cộng đồng chung quanh nó… mới quyết định được khả năng thu hút khách du lịch của những địa điểm đó. Trong nhiều năm trời, thậm chí đến bây giờ, rất nhiều người ở cấp quản lý vẫn còn gộp chung và đánh đồng những công trình tượng đài đậm tính tuyên truyền một chiều là những tác nghệ thuật công cộng. Trong khi bản chất của nghệ thuật công cộng là hướng tới tính cộng đồng, khả năng tương tác với ngữ cảnh, tương tác với cộng đồng với người xem. Các tác phẩm nghệ thuật cộng cộng nhấn mạnh khả năng tương tác, tham dự cũng như sáng tạo tiếp từ công chúng. Chính vì thế nó mới có khả năng thu hút số đông công chúng, tạo ra những hiệu ứng lan toả thu hút du lịch cũng như chất lượng của một điểm đến văn hoá.
2. Thực trạng nghệ thuật công cộng
Trong bài viết này, người viết xin đưa ra những nhận định tình hình thực trạng về nghệ thuật công cộng ở những dự án nghệ thuật công cộng diễn ra trên khu vực phố cổ Hà nội trong mấy năm nay, một khu vực trọng điểm về văn hoá lịch sử và thu hút lượng khách du lịch lớn . Không những chỉ là địa bàn thu hút phần lớn du khách quốc tế khi đến với thủ đô, khách du lịch ở các thành phố khác khi đến thăm Hà nội, khu vực quận Hoàn Kiếm cũng luôn là điểm thu hút trải nghiệm và thăm quan nhiều nhất. Và thực tế trong mấy năm trở lại đây, nhờ có sự xuất hiện của 1 loạt các dự án nghệ thuật công cộng trong khu vực phố cổ cùng với chính sách phát triển mở rộng khu phố đi bộ, quận Hoàn kiếm đã trở thành một địa bàn cho thấy rõ được hiệu quả của việc gắn nghệ thuật công cộng với phát triển thu hút du lịch hay nói cách khác là cho thấy được vai trò của nghệ thuật công cộng trong không gian đô thị.
Trong mấy năm gần đây các dự án nghệ thuật công cộng đã được xuất hiện ngày một nhiều hơn không những ở những thành phố lớn mà còn ở những vùng nông thôn, thị xã xa xôi. Chưa bàn nhiều đến chất lượng của các dự án, nhưng có thể thấy rõ ràng nhu cầu thưởng thức hay tối thiểu là nhu cầu xuất hiện của những dự án nghệ thuật công cộng trong những không gian công cộng là một xu thế của đời sống xã hội đương đại lan tỏa từ văn hoá toàn cầu và làn sóng đô thị hóa trên toàn thế giới. Trong phạm vi bài viết này, dưới vai trò là giám tuyển và nghệ sỹ trực tiếp tham gia một số những dự án nghệ thuật công cộng trong khu vực phố cổ ở Hà nội, người viết xin có một vài chia sẻ từ phía người trong cuộc.
Nghệ thuật công cộng là một loại hình nghệ thuật gắn với đô thị, với những không gian công cộng ngoài trời. Nó là sản phẩm đặc trưng của những đô thị có mối quan tâm và sự đầu tư vào những giá trị văn hoá chung, khơi gợi nên những cảm thức tự hào về nơi chốn cho cộng đồng trong một thành phố. Nó là cách mà cộng đồng cư dân ở thành phố đấy muốn cho thấy tâm hồn của cộng đồng đó được nhìn thấy như thế nào. Chính vì bao phủ phạm vi một không gian rộng lớn cả về ý nghĩa không gian vật chất hữu hình cũng như không gian văn hoá trừu tượng nên một dự án nghệ thuật công cộng không đơn giản là sự sáng tạo của cá nhân một nghệ sỹ mà nó là tổng hoà của nhiều yếu tố từ chính quyền địa phương, kiến trúc sư cảnh quan, giám tuyển và các nghệ sỹ. Nghệ thuật cộng cộng trong một không gian đòi hỏi nhiều yếu tố tương tác với ngữ cảnh và địa hình cụ thể, vì vậy để một dự án hoặc một tác phẩm thực sự trở nên hay và có ý nghĩa đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng của các thành tố kể trên cộng với sự nhậy cảm, khả năng đọc và tạo nghĩa thêm cho không gian đó thông qua sự sáng tạo trong tác phẩm của người nghệ sỹ. Tính chất sáng tạo đó rất gần với thực hành của những nghệ sỹ theo đuổi các xu hướng của nghệ thuật đương đại, hướng tới tác phẩm đa nghĩa khơi gợi nhiều lớp ý nghĩa thông qua cách người xem có thể tương tác với tác phẩm, hay trong cách tác phẩm đó đối thoại với không gian. Phân tích một chút như vậy để có thể thấy, muốn có những dự án nghệ thuật công cộng có chất lượng không đơn giản chỉ là cách đa số người Việt quan niệm cứ vẽ hay trang trí lên tường là thành nghệ thuật công cộng. Điều này cũng không khó hiểu khi đến nay giáo dục liên ngành ở trong các cơ sở đào tạo Đại học ở Việt nam vẫn còn rất nhiều hạn chế, trong các trường Mỹ thuật, trường Kiến trúc việc đào tạo hay trang bị những kiến thức về nghệ thuật đương đại, nghệ thuật công cộng gần như là rất hạn chế. Các họa sỹ, nhà thiết kế, hay kiến trúc sư… khi tốt nghiệp thường cũng chỉ quen làm việc trong ngành hẹp của mình, và hơn tất cả một cơ chế vận hành chuyên biệt của chính quyền cho những dự án nghệ thuật công cộng là chưa có. Chính vì thế cho đến nay các dự án nghệ thuật công cộng cứ diễn ra một cách khá manh mún, nhỏ lẻ và thiếu tính chuyên nghiệp đồng bộ. Có những dự án nhiều lúc cả chính quyền địa phương và nghệ sỹ đều lúng túng không biết phải giải quyết tiếp ra sao.
Với một thành phố giàu yếu tố văn hoá lịch sử cũng như những công trình và không gian cảnh quan sẵn có như Hà nội việc kết hợp triển khai các dự án nghệ thuật công cộng để đánh thức tiềm năng của thành phố cũng như sự tự hào của cộng đồng cư dân là một hướng đi cần thiết. Trong mấy năm gần đây, sự kích hoạt đầu tiên từ phía chính quyền Quận Hoàn Kiếm đã bắt đầu diễn ra khi Dự án nghệ thuật công cộng trên phố Phùng Hưng được khởi động dưới sự hợp tác phối hợp của Hội kiến trúc sư Hà nội, Korean Foundation, UN Habitat và các nghệ sỹ tình nguyện. Cho đến nay dự án đã diễn ra được hơn 4 năm kể từ khi bắt đầu công việc chuẩn bị cho Dự án. Với vô vàn những khó khăn ban đầu từ khi bắt đầu nhiều lúc tưởng chừng như không thể đi tiếp, cuối cùng sau hơn nửa năm vật vã của cả chính quyền địa phương, các nhà tổ chức và các nghệ sỹ tình nguyện, dự án nghệ thuật công cộng Phùng Hưng cũng được ra mắt vào dịp đầu Xuân 2018. Quyết tâm của cả nghệ sỹ và chính quyền quận Hoàn Kiếm đã được đền đáp sau đó bằng sự đón nhận nhiệt tình của hàng trăm nghìn người người dân Thủ đô và du khách mùa Tết năm đó cũng như tổng số hàng triệu lượt khách ghé xem và tương tác cùng tác phẩm của dự án trong suốt hơn 3 năm qua. Dự án đã làm biến đổi và bừng tỉnh một sức sống hoàn toàn mới cho một đoạn phố khá nhếch nhác và ô nhiễm trước đó. Một dự án mà trước đó hội đồng kiểm duyệt của Sở văn hoá không có kinh nghiệm trong việc cấp phép cũng như không thể lường hết được sự ảnh hưởng tới đời sống văn hoá và diện mạo của khu phố cổ sau đó. Với kinh nghiệm trước đó của Sở Văn hoá từ những dự án trang trí theo lối một chiều không có yếu tố tương tác như dự án con đường gốm sứ hay những dự án tượng điêu khắc ngoài trời…, những tác phẩm giàu tính tương tác và và gợi mở sự suy tư hay sáng tạo tiếp cho khán giả của các nghệ sỹ Việt nam trong Dự án nghệ thuật công cộng Phùng Hưng cũng khiến cho hội đồng nghệ thuật lúng túng và khá duy ý chí trong cách xử lý vấn đề. Những tác phẩm của các nghệ sỹ Việt nam tác động thẳng tới ký ức của chính khu phố Phùng Hưng, tới ký ức tập thể của cộng đồng cư dân Phố cổ thông qua cách tiếp cận đa dạng về chất liệu và cách thức sáng tạo tác phẩm. Nhiều tác phẩm mang xu hướng vật thể 3D và có khả năng tương tác rất mạnh với người xem như tác phẩm “Kim vàng giọt lệ” của hoạ sỹ Dương Mạnh Quyết nhắc nhớ chợ xe máy Phùng Hưng đầu tiên ở miền Bắc những năm mới mở cửa kinh tế. Người xem có thể trải nghiệm trò chơi “leo núi” thông qua việc chinh phục từng bộ phận chiếc xe máy cup Honda được gắn trên tường. Hay tác phẩm “Máy nước thời gian” và “những người chở” của Nguyễn Thế Sơn khơi gợi một ký ức khốn khó thời bao cấp xung quanh máy nước công cộng. Người xem có thể trải nghiệm nước chảy ra từ vòi nước và xếp hàng lấy nước như nửa thế kỷ trước trên vỉa hè Hà nội…Bậc thềm và cánh cửa sổ thật ngôi nhà Tây 63 phố Phùng Hưng cũng taí hiện gọi mời biết bao lượt khách bước vào một miền ký ức mênh mang của Hà nội cổ với những số phận những con người phía sau. Hay bức tranh gốm sứ “Phảng phất Cửa Đông” của nghệ sỹ Phạm Khắc Quang đã khiến bao người hồi tưởng lại ký ức 1 cổng thành Cửa Đông của thành Hoàng Thành xưa kia qua sự ma mị biến ảo của ngôn ngữ đồ hoạ điểm ảnh… Quả thật để mang được những tác phẩm nghệ thuật mang đậm xu hướng nghệ thuật đương đại ra phố ở thời điểm đó là một sự dũng cảm và dấn thân của nhiều bên. Và người được hưởng lợi trực tiếp chính là cộng đồng người dân khu phố đấy với sự sach sẽ khang trang cũng như lợi ích kinh tế đi kèm. Hà nội thêm một điểm đến văn hoá, một đoạn phố nghệ thuật độc đáo không thể bỏ qua của các đoàn tour khi ghé thăm Hà nội suốt mấy năm qua. Rõ ràng là cần lắm một cơ chế cởi mở trong quản lý văn hoá nghệ thuật của các Sở ban ngành. Cần chuyển từ tâm thế kiểm soát sang tâm thế đồng hành và chia sẻ với những dự án sáng tạo mang lại lợi ích cho cộng đồng. Trong xu hướng hội nhập và thúc đẩy phát triển về ngành công nghiệp văn hoá sáng tạo, dự án nghệ thuật công cộng Phùng Hưng năm 2019 đã được đưa vào như một điểm nhấn để ứng cử vào đề xuất UNESCO công nhận Hà nội vào chuỗi các thành phố sáng tạo trên thế giới.
Trên xu hướng đó Quận Hoàn Kiếm năm 2019 lại tiếp tục đề xuất với nhóm nghệ sỹ tình nguyện thực hiện dự án nghệ thuật công cộng Phúc Tân nhằm cải tạo và đánh thức không gian của khu vực bờ ven sông Hồng khu vực phường Phúc Tân. Tiếp tục với vai trò giám tuyển và nghệ sỹ trực tiếp tham gia, tôi đã mời thêm 15 nghệ sỹ, hội tụ khá đầy đủ các nghệ sỹ nổi bật về thực hành nghệ thuật đương đại từ Huế, Sài gòn, Hà nội và 2 nghệ sỹ nước ngoài sinh sống ở Hà nội nhiều năm. Đặc điểm của dự án nghệ thuật công cộng là không có dự án nào giống nhau, tuỳ thuộc vào tính chất địa hình và cộng đồng cư dân sống chung quanh khu vực đó. Khu xóm bờ sông Phúc Tân là một khu vực hết sức phức tạp và ngổn ngang cả từ địa hình tới cộng đồng cư dân khu biệt. Nhưng chính sự thô ráp xù xì khá nguyên sơ gần gũi với thiên nhiên nơi bãi bồi sông Hồng cùng với cây cầu Long Biên lịch sử đã cuốn hút và thách thức chúng tôi muốn thực hiện 1 dự án nghệ thuật công cộng tại đây. Một khu vực vốn bị coi là phía sau của thành phố, vệ sinh môi trường và cộng đồng cư dân khá thiệt thòi là những vấn đề chúng tôi đặt ra cần lưu tâm đặc biệt trong dự án lần này. Nhanh chóng ngay sau đó trong thiết kế tổng thể dự án chúng tôi đã quyết định đưa yếu tố “tái chế” và yếu tố “cộng đồng” trở thành một đặc điểm mấu chốt của dự án. Muốn kêu gọi sự nhận thức và chung tay của cộng đồng nơi đây chúng tôi đã quyết định tiến hành dự án theo cách “từ dưới đi lên”. Sẽ chỉ tiến hành thi công và làm tác phẩm khi có được sự chia sẻ và cảm nhận đầy đủ từ phía người dân và chính quyền địa phương. Với cách tiếp cận đó chúng tôi đã tiến hành những buổi chia sẻ và giải thích ý nghĩa tổng thể cũng như từng tác phẩm của từng nghệ sỹ tới người dân ở đây. Sự cởi mở và chân thành của chúng tôi đã được đáp lại bằng sự hồ hởi và nhất trí cao của cộng đồng với sự cam kết hỗ trợ chung tay thu gom phế thải và bảo vệ trông coi tác phẩm sau khi dự án hoàn thành. Một dự án nghệ thuật công cộng giờ đã được mở rộng thêm ý nghĩa của một dự án cộng đồng, khi người dân được cảm thấy sự đóng góp và cảm nhận được lợi ích từ nó. Chỉ trong vòng 1,2 tháng từ sau khi nhận được sự đồng thuận và hưởng ứng từ phía người dân chúng tôi đã khẩn trương thực hiện hoàn thành và lắp đặt toàn bộ các tác phẩm tương tác với các phần còn lại của bức tường lịch sử kéo dài gần 500m. 16 tác phẩm sắp đặt của 16 nghệ sỹ trong và ngoài nước tương tác trực tiếp với ký ức lịch sử của khu vực bãi sông Hồng cũng như của cộng đồng cư dân hình thành nơi đây, trở nên lung linh huyền ảo vào mỗi tối đã khiến cuộc sống của người dân thay đổi từng ngày. Những bãi rác tạm bợ, những thói quen không vệ sinh của người dân ở khu vực phường Phúc Tân và khu vực lân cận đã dần biến mất, những thói quen mới những sinh hoạt mới của người dân địa phương từ trẻ con tới người lớn đã dần làm cho khu vực xóm ven sông trở nên sinh động và đầy sức sống hoà quyện vào thiên nhiên trong lành và không khí ánh sáng của những tác phẩm nghệ thuật. Người dân đã dần quen với sự xuất hiện của các tác phẩm như một phần cuộc sống của họ, mang lại lợi ích về môi trường cảnh quan cũng như tiềm năng sinh kế khi khu vực này dần thu hút thêm khách thăm quan.
Tương lai viễn cảnh về một công viên sinh thái và nghệ thuật ven sông cũng bắt đầu được nhen nhóm quyết tâm cho người dân và chính quyền địa phương chung tay gắng sức bảo vệ môi trường cũng như trông nom các tác phẩm nghệ thuật. Có thể cảm nhận quá trình thay đổi nhận thức của người dân về môi trường cũng như nghệ thuật một cách khá rõ rệt thông qua dự án này khi thăm quan dự án. Ý tưởng về một “bảo tàng” nghệ thuật ngoài trời mở cửa ngày đêm cho bất cứ ai quan tâm yêu quý đã trở thành sự thực. Nhận thức là cả một quá trình, và có lẽ đã đến lúc cần có một sự đồng bộ từ chính sách cho đến quy chế hoạt động cho những dự án nghệ thuật công cộng để những nghệ sỹ có thể đóng góp được sự sáng tạo của mình một cách đàng hoàng cho những vùng đất còn bị bỏ quên.
Nghệ thuật công cộng có khả năng kết nối và đánh thức tâm hồn của một thành phố, cũng như là liều thuốc cân bằng lại cuộc sống tinh thần và tâm lý của con người. Hi vọng những dự án nghệ thuật công cộng như Phùng Hưng hay Phúc Tân sẽ trở thành cú hích khiến cho cả chính quyền và các nghệ sỹ cùng với người dân nhận thức được vai trò của nghệ thuật trong đời sống, nó có khả năng cải tạo và thay đổi môi trường sống của con người.
3.Kinh nghiệm quốc tế
Với kinh nghiệm cá nhân đã từng tham gia và thực hiện một số dự án nghệ thuật công công ở Mỹ và châu Âu cũng như từng trực tiếp tham quan và tìm hiểu về các dự án nghệ thuật công cộng ở những thành phố khác như Seoul, Bangkok, Singapore, Venice… và nhiều thành phố khác, người viết đã có thể nhìn thấy rõ sự gắn bó mật thiết của việc phát triển các dự án và tác phẩm nghệ thuật công cộng mang tính quốc tế với việc thúc đẩy sự quan tâm thu hút du lịch. Nhiều thành phố đã trở nên nổi tiếng trở thành những thương hiệu quốc tế về du lịch nghệ thuật trên thế giới, có thể ví dụ như Venice Biennale, Bangkok Biennale, Singapore Biennale… Cứ 2 năm một lần các thành phố kể trên đã gắn bó sự kiện quảng bá du lịch nghệ thuật văn hoá.. với sự kiện triển lãm nghệ thuật trong tất cả các không gian trong thành phố cả trong nhà lẫn ngoài trời. Các thành phố tổ chức đã trở thành một điểm đến về nghệ thuật cho các nghệ sỹ cũng như điểm du lịch kết nối toàn cầu. Điều này có thể nhận thấy rất rõ nét ở Đức, các sự kiện nghệ thuật, các dự án nghệ thuật không nằm tập trung ở các thành phố lớn, thành phố trung tâm, mà được tính toán trải đều xen kẽ một cách khoa học hợp lý để kéo du khách đến những thành phố nhỏ hơn ít nổi tiếng hơn. Ví dụ như sự kiện nghệ thuật Kassel Documental được tổ chức 5 năm 1 lần trở thành sự kiện nghệ thuật đương đại uy tín bậc nhất trên thế giới. Mỗi lần các sự kiện diễn ra các tác phẩm, các dự án nghệ thuật được giới thiệu xen kẽ khắp thành phố như một cách để hấp dẫn du khách khám phá thành phố. Cách đây 2 năm vào mùa hè năm 2018 tôi đã được mời tới bảo tàng nghệ thuật Worcester Art Museum để tham gia 1 chương trình nghệ sỹ cư trú và làm 1 dự án nghệ thuật công công tương tác với thành phố. Worcester cũng là một thành phố có dự án nghệ thuật công cộng phát triển mạnh nhiều năm trở lại đây. Các tòa nhà cao tầng, các khu nhà máy cũ, thư viện và trường học được phủ kín bởi các tác phẩm tranh tường khổ lớn trong dự án POWWOW rất nổi tiếng. Các nghệ sĩ khắp thế giới hàng năm được chính quyền thành phố mời đến vẽ và sáng tác trong hơn 1 tháng để mang lại sức sống mới tươi trẻ cho thành phố…Những dự án nghệ thuật kể trên diễn ra nhiều vô kể và tạo thành những sức hút khó cưỡng cho du khách đam mê nghệ thuật và văn hóa trên toàn thế giới. Không chỉ phổ biến ở những thành phố thuộc nước phát triển, các dự án nghệ thuật kết nối với các không gian công cộng trong thành phố cũng ngày càng trở nên phổ biến và được các thành phố ở châu Á, kể cả các thành phố nhỏ tập trung phát triển như một chiêu thức hiệu quả. Có thể lấy ví dự về Krabi Biennale ở Thái lan được tổ chức 2 năm trước đây, lần đầu tiên nghệ thuật đương đại được phủ kín khá nhiều điểm công cộng trong thành phố, trở thành 1 chuyến du lịch khám phá nghệ thuật một cách kỳ thú, đã thu hút hàng triệu du khách Quốc tế ghé thăm, mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội cho một địa danh còn ít được biết đến trước đó ở Thái lan như Krabi.
4.Đề xuất giải pháp
Còn rất nhiều những ví dụ như thế ở nhiều thành phố khác trên thế giới đã thực hiện rất tốt việc kết nối nghệ thuật nói chung cũng như nghệ thuật công cộng nói riêng với phát triển du lịch mà tôi đã có dịp được trực tiếp tìm hiểu và trải nghiệm với tư cách vừa là nghệ sỹ tham dự vừa là du khách tham quan. Từ kinh nghiệm thực tế kể trên cùng với những dự án nghệ thuật công cộng đã từng tham gia và triển khai trên địa bàn quận Hoàn kiếm Thành phố Hà nội những năm vừa qua, tôi đề xuất nên kết nối các dự án nghệ thuật công cộng, và những không gian nghệ thuật đương đại mới thành một bản đồ khám phá nghệ thuật trong thành phố, trở thành những sản phẩm du lịch khám phá văn hoá trải nghiệm cho du khách quốc tế cũng như địa phương. Điều này không chỉ nhằm thu hút du lịch mà còn có thể nâng cao trình độ thẩm mỹ của người dân cũng như nâng cao ý thức về giá trị cảnh quan, giá trị nghệ thuật đối với mỗi không gian trong thành phố. Trong mấy năm trở lại đây sự vận động mạnh mẽ của các không gian nghệ thuật tư nhân như Manzi, VCCA, hay Flamingo Đại Lải…đã khiến cho đời sống nghệ thuật và văn hoá của Hà nội trở nên sôi động hơn trước. Manzi đã từng thực hiện 2 dự án nghệ thuật công cộng. Một phiên bản thực và 1 phiên bản số ảo trên không gian mạng gắn kết với rất nhiều địa điểm trong thành phố. Ngoài ra không gian nghệ thuật đương đại trong đường hầm nhà Quốc hội cũng là một địa điểm có thể kết nối với bản đồ nghệ thuật làm tăng thêm chất lượng trải nghiệm khám phá nghệ thuật cho du khách. Bản thân không gian Nhà Quốc hội cũng hiện diện 2 không gian bảo tàng cổ vật Thăng Long và Đại la được thiết kế hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế cũng là một điểm kết nối thú vị của bản đồ nghệ thuật. Ngoài ra còn một số dự án và không gian sáng tạo khác có thể bổ sung làm giàu có thêm sức hấp dẫn của thành phố. Ngoài việc in ấn bản đồ cũng như tờ rơi quảng bá về các không gian nghệ thuật trong thành phố, cũng cần xây dựng những phần mềm trên điện thoại và phổ biến rộng rãi trong nhiều hình thức quảng bá thu hút du lịch khác. Ngoài ra cũng cần sớm tính tới việc tổ chức các Biennale nghệ thuật đương đại có quy mô quốc tế như mô hình các thành phố Đông Nam Á khác đã từng rất thành công. Hà nội trong cam kết trở thành 1 thành phố trong chuỗi các thành phố sáng tạo trên thế giới sẽ cần một cú hích cần thiết để xây dựng 1 chiến lược đồng bộ cho việc thúc đẩy các không gian văn hóa sáng tạo mà ở đó nghệ thuật công cộng trở thành một kết nối khả dĩ.
5.Định hướng
Một dự án nghệ thuật công cộng khi được thực hiện thành công sẽ tạo nên các hiệu quả cộng hưởng đi kèm sau đó, không chỉ nâng cao thẩm mỹ văn hoá chung cho cộng đồng mà còn nâng cao ý thức tôn trọng các tác phẩm nghệ thuật, giúp ích cho việc giáo dục nghệ thuật.
Việc rất cần tiếp theo là sự hợp tác của các ban ngành trong xã hội từ du lịch đến giáo dục tạo thêm sức lan tỏa cho những dự án cộng đồng như vậy.
Đi cùng với sự phát triển của các không gian nghệ thuật rất cần tới sự mở rộng của các không gian sáng tạo.
Các không gian sáng tạo là một khái niệm khá mới mẻ trong những năm gần đây với sự nổi lên và cũng biến mất nhanh chóng của khu nghệ thuật tự phát “Zone 9” trên nền một khu nhà máy Dược ở ngay trung tâm quận Hoàn Kiếm. Sau sự tan rã của Zone 9, các xưởng sáng tạo nhỏ từ thiết kế tới kiến trúc, không gian nghệ thuật… đã dạt ra khắp nơi ở Hà nội và cố gắng vật lộn để dần khẳng định sự cần thiết và nhu cầu thiết yếu của việc tạo dựng và vận hành những không gian sáng tạo. Mô hình này thực sự là không mới, bài học từ những thành phố ở các nước phát triển trên thế giới từ Đông sang Tây đều chứng minh nhu cầu cấp thiết của những không gian sáng tạo trong giới trẻ chính là một nguồn năng lượng tươi mới của thành phố đồng thời giải quyết nhu cầu kết nối trực tiếp với cộng đồng. Hà nội trong hướng đi tiếp theo cũng cần hướng tới mục tiêu sớm trở thành thành phố thông minh nơi thúc đẩy các không gian sáng tạo để phù hợp với xu thế phát triển trong tình hình mới. Chính vì vậy theo quan điểm cá nhân tôi, vấn đề nằm ở chính sách phát triển kinh tế văn hoá xã hội cụ thể của chính quyền, cần phải có những cam kết thay đổi ủng hộ và đồng hành cùng với việc thúc đẩy nguồn lực sáng tạo trẻ. Giới trẻ, tôi tin luôn đủ nhậy bén để nắm bắt thời cơ và phát triển. Bên trong các không gian sáng tạo nên có một tỉ lệ nhất định dành cho những sáng tạo mang tính kết nối cộng đồng, cụ thể là những tác phẩm nghệ thuật công cộng, nhằm tạo điểm nhấn sức hút và là nguồn năng lượng kích thích sự sáng tạo tự do. Nghệ thuật cộng cộng và những không gian sáng tạo tôi cho là sẽ trở thành những điểm nhấn then chốt tạo nên những thay đổi căn bản cho mục tiêu trở thành thành phố thông minh, thành phố sáng tạo như cam kết của Hà nội trong tương lai không xa.
Các không gian nghệ thuật, các dự án nghệ thuật công cộng và các không gian sáng tạo trong thành phố sẽ trở thành một chuỗi liên kết giá trị thu hút hấp dẫn du khách cũng như của những cá nhân tổ chức sáng tạo, tạo nên hiệu quả không những chỉ văn hoá, giáo dục mà còn là một hướng mới trong gia tăng phát triển kinh tế.
Nguyễn Thế Sơn