Sự biến đổi của cảnh quan đô thị Hà nội thông qua các dự án nghệ thuật thị giác.
Hà nội là thành phố có một lịch sử hình thành và phát triển rất lâu đời. Đối với tôi Hà nội giống như một cơ thể sống, rất đẹp nhưng cũng luôn phải thay hình đổi dạng qua suốt hành trình biến thiên của thời cuộc. Hà nội là nơi mà ở đó các lớp thời gian, các lớp lịch sử cứ xuất hiện rồi chồng đè lên nhau tựa như những lớp địa tầng của thời gian. Nhìn vào những dấu hiệu đứt gãy, những âm hưởng còn sót lại của một Hà nội xưa pha trộn cùng với các biểu tượng, hình ảnh của thời đại mới khiến tôi có cảm giác như đang lần đọc các lớp lịch sử của đô thị. Vì vậy tôi nghĩ Hà nội giống như một bảo tàng sống nơi lưu trữ đầy đủ cả ký ức của quá khứ và nhịp sống của hiện tại đang đổi thay từng ngày từng giờ. Chính từ quan niệm về cách tiếp cận đó, các dự án nghệ thuật của tôi cứ dần hình thành. Tôi sử dụng các dự án nghệ thuật của mình giống như một tấm gương phản chiếu lại quá trình biến đổi cảnh quan của đô thị trong suốt hơn một thế kỷ qua. Như một người mắc duyên nợ với thành phố này, tôi luôn cố gắng đi tìm sự giải mã các mối liên kết mong manh giữa những tín hiệu thị giác còn sót lại của quá khứ còn in dấu trên mặt tiền của các ngôi nhà với những thứ ngồn ngộn cứ xuất hiện rồi lại vụt biến mất trong vòng xoáy chuyển động không ngừng nghỉ của một xã hội tiêu dùng hiện đại ngày hôm nay.
Mỗi dự án là một lần tôi cố gắng đi tìm một chất liệu, một ngôn ngữ hay một cách tiếp cận mới, đủ để tải được những ý tưởng mà tôi muốn thể hiện. Có lúc là chất liệu lụa, có lúc là nhiếp ảnh, có lúc là sắp đặt, video thậm chí tạo ra một ngôn ngữ tạo hình mới với cái tên phù điêu ảnh. Mỗi một dự án nghệ thuật là một lần tôi đặt ra câu hỏi cho chính tôi cũng như cho chính người xem về giá trị của Hà nội, giá trị của những không gian văn hoá, không gian sống mà chúng ta đã từng có cũng như đang cố gắng dựng xây ngày hôm nay, liệu sẽ trở nên thế nào trong tương lai sắp tới.
Lấy chất liệu từ những vấn đề của đời sống đương đại, những tác phẩm của tôi thường là chuỗi các dự án khảo sát các hiện tượng trong xã hội, chất liệu và ngôn ngữ tùy biến vào điều kiện, hoàn cảnh và tính chất của từng vấn đề trong mỗi dự án. Từ sau dự án tranh lụa “Tầm cao mới” năm 2007 (loạt serie tranh lụa nghiên cứu hình thù kỳ dị của những ngôi nhà hình ống đang trong quá trình phủ bạt xây dựng), tôi vẫn tiếp tục quan sát về hình ảnh đô thị biến đổi và lên kế hoạch thực hiện những dự án nhiếp ảnh tiếp theo. Trong quá trình đó tôi được cử sang Bắc Kinh học tập, sau những lần đi đi về về tôi chợt nhận thấy sự thay đổi nhanh chóng của hiện tượng các tấm pano quảng cáo cỡ lớn xuất hiện ngày một nhiều, ngày càng to cao và có xu hướng chiếm lĩnh không gian công cộng. Hiện tượng này trước đây không phải là không có, song chỉ là cá biệt, khoảng vài năm trở lại đây nó đã trở thành một xu hướng phổ cập và trở nên hết sức bình thường trước mắt mọi người.
Nguyên bản mô hình gốc của “Nhà Mặt Phố” đương đại chính là nhà ống cổ nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn biến đổi về hình dáng và cấu trúc. Đặc trưng của nhà hình ống cổ là dù chật hẹp nhưng không khí vẫn lưu thông, kiến trúc trong nhà cổ được thiết kế khéo léo, hài hòa thân thiện với thiên nhiên. Mái dốc, lợp ngói rất mát mẻ. Người Hà nôi xưa luôn tận dụng mọi khoảng không gian để đưa thiên nhiên vào nhà, giữa các gian nhà thường có 1 đến 2 khoảng sân tạo không gian thở. Việt nam từ sau năm 1986 đến nay, đặc biệt là trong một vài năm trở lại đây sau mốc gia nhập WTO năm 2006, nền kinh tế Việt nam đã có nhiều chuyển biến và thay đổi khốc liệt. Từ một nền kinh tế cộng sản thời chiến chuyển sang nền kinh tế tập trung bao cấp rồi chuyển sang thời kỳ mở cửa và từ đó đến nay hình thành một nền kinh tế thị trường sơ khai đang chuyển mình nhanh chóng trong sân chơi hội nhập toàn cầu hoá.
Cùng với sự chuyển mình của nền kinh tế là sự xuất hiện của khái niệm “Nhà Mặt Phố” và sự lên ngôi của nền kinh tế tư nhân khi chính thức được nhà nước công nhận. Giá trị của những ngôi nhà mặt phố tăng lên một cách nhanh chóng kéo theo một thời kỳ bùng nổ xây dựng bê tông hoá đô thị. Những căn nhà hình ống mặt tiền nhỏ hẹp đua nhau xây dựng cao vút trở thành một hình ảnh phổ biến lặp đi lặp lại tràn lan trên tất cả các đô thị lớn. Tiếp theo đó sự bùng nổ của các công nghệ quảng cáo kéo theo sự phát triển rầm rộ xu hướng “bịt mặt” các “Nhà Mặt Phố” bằng những tấm biển quảng cáo cỡ lớn. Tất cả các công nghệ quảng cáo mới nhất được đón nhận một cách hào hứng. Người ta bằng mọi cách tận dụng tối đa ưu thế vị trí của “Nhà Mặt Phố”, biến nó thành những ngọn hải đăng hút ánh mắt của biển người đi đường càng nhiều càng tốt. Và thế là cuộc chạy đua cho những tấm biển quảng cáo diễn ra không ngừng nghỉ. Dần dần không gian riêng tư của mỗi gia đình biến thành không gian công cộng từ lúc nào không biết.
Gần như tất cả các ngành nghề dịch vụ, kinh doanh, làm ăn từ những nhu cầu tối thiểu cho đến những nhu cầu cao cấp đều xuất hiện trên những tấm biển quảng cáo của các ngôi Nhà Mặt Phố. Từ của hàng ăn uống, mát xa đến những ngân hàng, trung tâm điện máy, thời trang… đều bám lấy mặt đường. (vẫn là tâm lý nhất cận thị nhị cận giang khi xưa). Giờ đây các ngôi Nhà Mặt Phố trở thành những ốc đảo khép kín được tô vẽ cho bắt mắt nhất có thể. Các ký hiệu, biểu tượng, logo, chữ cái càng to càng nổi càng ấn tượng càng tốt, mục đích là làm sao để toả sáng, lấn át được xung quanh, biến mình thành nổi bật nhất. Những hình ảnh người mẫu, siêu sao, những tiện nghi sang trọng, hiện đại đi kèm những lời văn, câu slogen đầy hấp dẫn chính là sự mong mỏi, ước mơ về sự hoàn mỹ tuyệt đối của con người. Tất cả các con số, ký tự, hình ảnh đều được cố gắng làm nổi ra hết cỡ, hình thành xu hướng 3D hoá biển quảng cáo. Trong cơn lốc của kinh tế hội nhập toàn cầu hoá, kinh doanh phải dựa vào quảng cáo là một điều hiển nhiên, tiêu dùng thực dụng chiếm phần lớn thị trường. Rất ít ngôi Nhà Mặt Phố không được tận dụng để kinh doanh và treo biển quảng cáo cỡ lớn. Các yếu tố cá nhân phải nhường chỗ cho những lợi ích kinh tế, thay vì được đón ánh sáng và không khí thoáng đãng của tự nhiên thì con người hiện đại phải đánh đổi bằng ánh sáng của đèn nêon và gió của điều hoà. Mở cửa nền kinh tế đồng nghĩa với việc nhiều ô cửa sổ và ban công đã phải đóng lại.
Dự án “Nhà Mặt Phố” của tôi đã được hình thành trong bối cảnh đó. Trong quá trình khảo sát và thực hiện dự án tôi đã cố gắng thử nghiệm một khái niệm mới “nhiếp ảnh phù điêu” khi sử dụng chính công nghệ làm biển quảng cáo đang thịnh hành và dùng chính những người thợ trong ngành quảng cáo trực tiếp tham gia vào quá trình thi công tạo nên tác phẩm. “Nhà Mặt Phố” là một câu chuyện mở, vừa mang tính thời sự, tính tài liệu, vừa là quá trình thực hành dạng nghệ thuật thử nghiệm khi lai tạp, pha trộn các chất liệu, các phương thức tiến hành khác nhau để tạo ra một sản phẩm chứa đựng nhiều ký hiệu biểu trưng cho cuộc sống của con người đương đại vốn đa hướng và khó nắm bắt. Qua đó tôi muốn tạo nên một mô hình cuộc sống thu nhỏ, một trò chơi thị giác nhằm kích thích sự giải mã từ phía người xem.
Tiếp sau dự án Nhà Mặt Phố tôi đã đi sâu hơn một bước nữa khi đưa lát cắt lịch sử lùi lại hồi đầu thế kỷ 20 với những ngôi “Nhà Tây”- một biểu tượng của 1 đô thị hiện đại với kiến trúc quy hoạch của người Pháp. Với dự án nghệ thuật “Nhà Tây” biến hình, tôi muốn tiếp tục mở rộng một dự án lớn nghiên cứu về “Sự biến đổi của cảnh quan đô thị” của mình. Sử dụng thủ pháp “nhiếp ảnh phù điêu” tôi cố gắng tiếp tục thử nghiệm khái niệm “chụp cắt lớp” kiến trúc, bóc tách các lớp lịch sử đã hình thành và chồng đè liên tiếp lên nhau trong suốt 100 năm qua. Nó tựa như một phương pháp chụp X-quang xuyên thời gian, để qua đó cố gắng đọc hiểu và lắng nghe tiếng thở than của những ngôi nhà hay nói đúng hơn là số phận của những ngôi nhà, số phận của những gia đình trải qua những trắc trở biến thiên của thời cuộc. Với những ngôi “Nhà Tây”, ban công là món quà của nền dân chủ phương Tây, nó mang cho người Việt nam 1 giá trị mới, giá trị cá nhân, giá trị của con người thị dân. Chưa bao giờ người Việt được đứng ở 1 tầm cao như vậy để nhìn xuống người đi đường. Hà nội thời đó có rất nhiều ngôi nhà mang kiến trúc của miền Nam nước Pháp với đặc điểm thanh thoát, tinh tế, gắn bó với thiên nhiên. Và ban công chính là nơi gặp gỡ của con người với đất trời. Có thể nói ban công là 1 đặc sản của Hà nội thời thuộc địa. Cùng với đó trên trán nhà thường xuất hiện những dòng chữ đắp nổi tên gia chủ, hay tên của ngôi nhà được gia chủ đặt tên với cả một niềm tự hào và hãnh diện có khi bằng cả 3 thứ tiếng Pháp, Việt, Hoa (Ví dụ như ngôi nhà ở 68 Đào Duy Từ có tên là Maison Yến Mỹ của ông Nguyễn Đình Phẩm hay tiệm bán đồ vàng bạc trang sức Thành Mỹ ở số 18 phố Cửa Nam…).
Nhưng sự thăng hoa trong kiến trúc cũng như văn hóa quảng cáo mặt tiền đó cũng chẳng tồn tại được bao lâu. Chiến tranh và sự du nhập của những tư tưởng chính trị đã biến toàn bộ bức tranh nhà phố cổ ở Hà nội trở thành những bức ảnh đen trắng nhợt nhạt và u ám. Suốt một thời kỳ dài không còn dấu hiệu gì của dấu ấn cá nhân hay văn hóa mặt tiền, tất cả các ngôi nhà ống cổ hay nhà biệt thự kiểu Pháp đều bị mỏ xẻ và nhồi nhét hàng chục gia đình từ nông thôn và các địa phương khác tràn lên thành phố, theo qui định mỗi người được vài mét vuông. Không 1 yếu tố gì gắn đến khái niệm cá nhân, tư hữu, không 1 cửa hàng doanh nghiệp nào được phép tồn tại và đương nhiên sẽ không có bất kỳ một dấu hiệu quảng cáo dịch vụ sản phẩm nào. Tất cả các nhu cầu sản xuất sinh hoạt của toàn xã hội đều do nhà nước quản lý và bao cấp. Có lẽ người ta chỉ nhớ đến một thứ ám ảnh nhất của thời kỳ đó là hình ảnh chiếc tem phiếu nhỏ xíu quyết định toàn bộ sự sống của con người và mặt tiền trên các con phố tràn ngập những tranh cổ động và biểu ngữ khẩu hiệu đỏ rực. Sau những biến cố lịch sử và chính trị đã biến hầu như toàn bộ những ngôi “Nhà Tây” trên khắp Hà Nội trở thành những khu nhà tập thể bất đắc dĩ khi bị chia nhỏ thành những khoảng không gian chật hẹp, những ban công lãng mạn ngày nào giờ bỗng trở thành cái toa lét, cái bếp, hay phòng ngủ tạm bợ. Rồi trên trán nhà, những con chữ đầy kiêu hãnh tự hào của gia chủ ngày nào giờ vội vàng bị đục bỏ, tẩy xoá…Mặt tiền nhiều ngôi “Nhà Tây” bỗng trở thành Hợp Tác Xã… Những cánh cửa chính của mỗi căn nhà giờ không bao giờ cần khoá vì nó đã trở thành 1 cái cổng ngõ chung tự bao giờ.
Thế rồi Mở Cửa, cùng với cơn lốc Nhà Mặt Phố, những ngôi Nhà Tây lại tiếp tục bị “phanh thây” một lần nữa. Từng mét vuông mặt tiền giờ đều thành tiền mặt, và đục, phá, khoan cắt bê tông, và tiếp tục lên tầng…. ( Có thể lấy ví dụ căn nhà ở số 10 Lý Quốc Sư ngày nay nổi tiếng với thương hiệu Phở 10, thì ngay dòng trên tấm biển vẫn đề hàng chữ nhỏ “Hợp Tác Xã Mùa Thu”, và nhìn ngước lên một chút nữa phần trán nhà ta vẫn còn thấy dòng chữ đắp nổi tên chủ nhà 100 năm trước Nghiêm Xuân Thức – La Photo – tên ông chủ hiệu ảnh nổi tiếng hồi đầu thế kỷ).
Nhìn những ngôi “Nhà Tây” ngày nay sau bao biến động đảo lộn của lịch sử trông giống như những khối trầm tích của lịch sử, nhưng bị lộn ngược lên trên. Lớp địa tầng lịch sử thứ nhất nằm ngay ở tầng một với lố nhố những cửa hàng ki ốt biển quảng cáo chen nhau từng mét vuông phản ánh một lớp thời gian gần đây sau khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế, chấp nhận nền kinh tế tư nhân. Lớp địa tầng lịch sử thứ 2 nằm cao hơn một chút trên những ban công với hoa sắt xưa bị biến thành chuồng cọp, những khung nhôm kính quây tạm thành phòng vệ sinh hay một căn bếp, phía ngoài treo lủng lẳng điều hoà đủ các loại, phản ánh một lịch sử thời bao cấp với chính sách “cải tạo nhà cửa” và “phân phối nhà ở” cho cán bộ công nhân viên Nhà nước. Lớp địa tầng thứ 3 nằm trên các trán nhà với tên gia chủ và hoa văn kiến trúc còn sót lại trên mặt tiền, phảng phất lại hồn phách của căn nhà nguyên thuỷ thời đầu thế kỷ. Dự án “Nhà Tây” biến hình của tôi là một nỗ lực suốt gần 2 năm trời chạy đua với sự biến hình của những ngôi nhà mang bóng dáng của một Hà nội hào hoa xưa.
Cùng với dự án “Nhà Tây” biến hình tôi đã tiến hành song song dự án “Tôi đi tìm ngôi nhà chung” khi cố gắng chạy đua với thời gian để lưu trữ lại hình ảnh của những ngôi Đình thờ tổ nghề trong khu phố cổ. Dự án giống như một lát cắt lịch sử lâu hơn nữa khi cố gắng kết nối với những tín hiệu đứt gãy của một Hà nội cổ xưa của đất Thăng Long-Kẻ Chợ. Trước khi có người Pháp đến Hà Nội đúng như cái tên Kẻ Chợ của nó chính là một ngôi làng to nơi tụ họp buôn bán của nhiều làng nghề nhỏ tập trung từ các vùng ven Hà Nội. Mỗi làng nghề tập trung về đây lại mang theo đức tin và nguồn gốc của mình gửi gắm trong những ngôi Đình thờ tổ nghề. Sau một quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tôi đã ghi lại được vết tích hình bóng của hơn 60 ngôi Đình thờ tổ nghề trong khu vực Phố Cổ. Những ngôi Đình – vốn được coi là trung tâm của một cộng đồng xưa kia ngày nay sau nhiều biến thiên của lịch sử phần lớn đã thay hình đổi dạng chỉ còn sót lại khoảng hơn 20 ngôi Đình còn có thể nhận ra bằng mắt thường. Ngôi Đình vốn được coi là “ngôi nhà chung” của cộng đồng, sau những lần chuyển mình của hành trình từ Làng lên Phố đã dần biến thành những “ngôi nhà riêng”.
Và một dự án mới tôi vừa bắt đầu khởi động có cái tên “Mông và Mặt” khi tiến hành nghiên cứu những tín hiệu thị giác trên mặt tiền của những khu tập thể xuất hiện từ thời bao cấp. Dự án cũng là một phần bổ sung nốt vào chuỗi các tác phẩm nghiên cứu về “Sự biến đổi của cảnh quan đô thị Việt nam trong thời kỳ chuyển đổi” tôi đã tiến hành được hơn 10 năm nay. Một Hà nội đầy biến động suốt chiều dài lịch sử với hơn 100 năm qua đã và sẽ được tái hiện phần nào qua các dự án nghệ thuật của tôi. Mỗi sự thay đổi làm xáo trộn của lịch sử đã làm đứt gãy ký ức của những con người nơi đây, nhưng tôi nghĩ mặt tiền của đô thị chính là một bảo tàng sống nơi lưu trữ ký ức rất đầy đủ. Và tôi chỉ đóng vai trò của một người biên sử cho thời đại mà tôi đang sống thông qua cách kể chuyện sinh động hơn bằng những mô hình.
Nguyễn Thế Sơn